Thành tích Ivan_Nikitovich_Kozhedub

Thế chiến thứ hai

Năm 1943, thấy rằng cần phải dùng khả năng xuất sắc của mình để tham gia chiến đấu, ông đề nghị được ra tiền tuyến. Từ tháng 3 năm 1943, Kozhedub bắt đầu trở thành phi công chiến đấu trên một chiếc Lavochkin La-5. Trong Thế chiến thứ hai, Ivan đã phục vụ tại các Phương diện quân Voronezh, Thảo nguyên, Ukraina 2, Belorussia 1 với các vị trí từ phi công chính lên đến phó tư lệnh trung đoàn bay.

Ngày 6 tháng 7 năm 1943, Kozhedub hạ chiếc máy bay đối phương đầu tiên, đó là một chiếc Junkers Ju 87 ("Stuka"), một ngày sau ông hạ tiếp chiếc thứ hai và ngày tiếp theo ông bắn rơi thêm hai chiếc Bf-109. Chỉ trong vòng 10 ngày đầu tham chiến, thành tích của Kozhedub đã lên tới 8 máy bay (tính đến ngày 16 tháng 7 năm 1943).

Trong Chiến dịch vượt Sông Dnepr, chỉ trong vòng 10 ngày, Kozhedub đã hạ 11 máy bay của Không quân Đức. Tháng 4 năm 1944, trong một phi vụ chiến đấu, ông đã bắn rơi 3 máy bay đối phương. Từ tháng 7 năm 1944, Ivan Kozhedub được đề bạt làm phó chỉ huy Trung đoàn cận vệ bay số 176 thuộc Phương diện quân Belorussia số 1 và chuyển sang lái một chiếc La-7 mà với nó ông đã hạ thêm 17 máy bay đối phương

Tổng cộng trong Thế chiến thứ hai, Ivan Kozhedub đã tham gia 326 phi vụ bay, tham chiến trong 126 trận không chiến, hạ tổng cộng 62 máy bay đối phương các loại (trong đó có 22 chiếc FW 190 và 18 chiếc Ju 87)[1]. Hai chiếc máy bay chiến đấu ông đã cầm lái là La-5 FNLa-7. Ông cũng từng bắn rơi một chiếc Meserschmitt Me 262 khi lái chiếc La-7.

Sau năm 1945

Năm 1949, Kozhedub tốt nghiệp Học viện Không quân Zhukovsky.

Tháng 4 năm 1951, ông được đề bạt làm Tư lệnh Sư đoàn bay số 324 của Không quân Liên Xô tham chiến tại Chiến tranh Triều Tiên, tuy nhiên Kozhedub không được phép tham gia chiến đấu trực tiếp.Năm 1956, Ivan Kozhedub tốt nghiệp Học viện Quân sự cao cấp và trở lại công tác chỉ huy không quân. Từ 1964—1971, ông là Tư lệnh Không quân Quân khu Moskva. Năm 1970, ông được phong hàm Thượng tướng Không quân. Năm 1985, ông được thăm hàm Nguyên soái Không quân (tương đương Đại tướng Lục quân.

Ông qua đời ngày 8 tháng 8 năm 1991 tại Moskva.